Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

    Giờ Chết - Nguyễn Nguyên Phước

    UntilU
    UntilU
    Thành Viên
    Thành Viên


    Nam
    Tổng số bài gửi : 130
    Age : 36
    Đến từ : HOU
    Hiện đang là : Student
    Registration date : 22/12/2007

    Giờ Chết - Nguyễn Nguyên Phước Empty Giờ Chết - Nguyễn Nguyên Phước

    Bài gửi by UntilU Sat Apr 19, 2008 1:47 am


    Giờ Chết




    Đến bây giờ cô vẫn nhớ rõ từng chi tiết cái chết của mẹ. Ba tháng trước
    đó, bà Vương, vốn là một người xem bói rất giỏi, nói với cô con gái út
    rằng mình sẽ chết vào lúc một giờ sáng ngày rằm tháng sáu âm lịch và
    dặn cô không được nói với ai. Đã ba năm bà chỉ nằm trên giường; mấy đứa
    con phải thuê một người họ hàng xa chăm sóc. Cô con gái út thường về
    làng thăm mẹ vào cuối tuần. So với mấy anh chị sống trên Hà Nội, cô là
    người đi lại thuận tiện nhất; làm thợ may trên thị xã chẳng có mấy
    khách hàng lại cách làng có mười cây số. Từ ngày mẹ ốm, khách xem bói
    không còn quấy rầy bà cụ nữa; điều đó khiến cô cảm thấy thoải mái hơn.
    Ngày trước, cứ mỗi lần về thăm mẹ, cô lại bị ám ảnh bởi một nỗi sợ hãi
    mơ hồ khi phải đối mặt với những khuôn mặt mệt mỏi và vô vọng đến từ
    những nơi xa lạ mà chắc chắn đến cái tên bà cụ cũng chưa bao giờ nghe
    đến.

    Không ai biết chính xác bà Vương có khả năng tiên tri từ bao giờ. Hồi
    còn bé, cô út rất thích những câu chuyện mà mẹ vẫn hay thì thầm với
    khách. Cuộc đời của họ, qua lời của mẹ, trở nên rối rắm đến kỳ lạ. Cô
    không biết mẹ đang nói về quá khứ hay tương lai và đôi khi cứ băn khoăn
    liệu những điều bà nói có đúng hay không. Xét cho cùng thì số phận của
    một cá thể chẳng có ý nghĩa gì đối với cộng đồng ngoài sự tồn tại của
    chính bản thân cá thể đó; hơn nữa, nó lại không thể thay đổi được. Vậy
    thì tại sao người ta lại phải xem bói? Phải chăng số mệnh của họ ngay
    từ lúc chào đời đã bao gồm cả việc phải tìm đến một nhà tiên tri - cũng
    chẳng có gì chắc chắn đó không phải là một tay tiên tri dởm - như một
    thủ tục bắt buộc để thay đổi cuộc đời mình theo cái cách mà số mệnh
    định đoạt thông qua miệng của kẻ kia. Hay biết đâu đó chỉ đơn giản là
    nhu cầu của những kẻ mất phương hướng, phải nhờ đến một bà già không
    quen biết đưa ra một sự bảo đảm mơ hồ về tương lai, mà sự bảo đảm ấy
    thực chẳng mang lại cái gì ngoài sự khó chịu.

    Thỉnh thoảng, mẹ cô vẫn than thở chuyện bói toán. Đối với bà, nó cứ y
    như là một hình phạt khủng khiếp vậy. "Chắc kiếp trước mẹ là kẻ khốn
    nạn!" - bà than vãn - "Đêm nào trước khi đi ngủ, mẹ cũng cầu trời sáng
    mai tỉnh dậy, mình sẽ không còn khả năng xem bói nữa. Con cứ thử tưởng
    tượng mà xem. Ngày nào cũng phải đối mặt với những suy nghĩ xấu xa
    trong con người họ". Thực ra, cô út chẳng tin lắm vào sự khốn khổ mà bà
    mẹ hay ca cẩm. Những nỗi niềm đau khổ dằn vặt đó liệu có thực sự tồn
    tại hay không, hay chẳng qua chỉ là sự tưởng tượng của bà cụ. Hơn nữa,
    làm sao có thể chắc chắn trong tâm hồn những con người kia luôn ẩn chứa
    dã tâm như mẹ cô nói. Biết đâu mẹ cô lại mắc bệnh hoang tưởng. Chẳng
    hạn, có lần bà nói với một người đàn ông rằng mẹ anh ta sẽ chết vào mùa
    hè năm sau. Người đàn ông gầy gò, bé nhỏ có khuôn mặt đầy tàn nhang
    bỗng luống cuống, cứ như thể anh ta đánh rơi một vật gì đó. Khi khách
    đã ra về, bà thở dài nói: "Mẹ anh ta nằm liệt giường đã ba năm nay. Anh
    ta chờ đợi cái chết của bà mẹ từ lâu lắm rồi. Dẫu sao cũng chẳng đáng
    sợ bằng thằng anh con. Lúc nào nó cũng nghĩ đến chuyện giết vợ".

    Người con trai cả của bà Vương, giám đốc một công ty xây dựng ở Hà Nội,
    thường bị những cơn đau đầu bất thần hành hạ. Trước đó gần hai chục
    năm, anh bị tình nghi có liên quan đến cái chết của một cô gái. Theo
    như những lời đồn đại, xác cô gái được chôn ở đâu đó ngoài bãi ngô;
    người ta đã đào xới tung lên mất mấy tuần nhưng chẳng thấy gì ngoài mấy
    khúc xương trâu. Hồi đó, anh độc thân và làm giám sát thi công ở thị
    trấn N. hơn hai năm, cái thị trấn buồn tẻ chẳng có gì để giải trí ngoài
    mấy cái quán giải khát kiêm chiếu phim video buổi tối. Người ta thường
    chỉ chiếu những bộ phim chưởng được làm vụng về với chung một cái chết
    cho mọi nhân vật, tất cả đều phun máu ra đằng mồm. Anh quen cô trong
    một buổi chiếu phim. Cô mười chín tuổi, học xong cấp ba, làm phụ việc
    cho tiệm may của bà cô. Vào những buổi tối mùa hè, dân thị trấn thường
    thấy họ đi dạo bên bờ sông, khi ấy hãy còn vắng vẻ chứ không nhộn nhịp
    như bây giờ. Sau khi cô mất tích, công an gọi anh lên thẩm vấn mấy lần
    nhưng rồi cũng không tìm ra manh mối nào từ mối quan hệ mập mờ của họ.
    Nhiều người nói rằng anh bắt đầu bị chứng đau đầu hành hạ sau thời gian
    làm việc ở N., nhưng cũng có giả thiết cho rằng anh bị bệnh từ trước đó
    và rất có thể trong một lần bị đau đầu như thế, anh đã giết cô. Dẫu sao
    thì cũng chẳng có chứng cớ nào để kết tội anh và câu chuyện nhanh chóng
    bị quên lãng.

    Ba năm sau, anh lấy vợ. Đứa con đầu được sinh sau đó bảy tháng. Một số
    kẻ ác ý đã nói rằng nó không phải con anh nhưng dù sao cũng chẳng có gì
    để khẳng định điều đó khi mà những đám cưới kiểu như vậy vốn đầy rẫy ở
    thành phố. Cô út không biết nhiều về cuộc sống của ông anh trai. Cô
    chưa bao giờ gặp anh ở nhà trong những lần hiếm hoi ra chơi Hà Nội. Bà
    chị dâu, dưới mắt cô, là một người dễ chịu. Bà ta có cái khéo léo hơi
    giả tạo kiểu người thành phố. Ông anh trai là người thành đạt nhưng ánh
    mắt vẫn đượm vẻ u buồn. Ông ít khi thể hiện tình cảm, ngay cả với bà mẹ
    ốm yếu. "Đó là thói đạo đức giả" - ông lạnh nhạt nói, mỗi khi ai đó
    nhắc nhở về thói lạnh nhạt, thờ ơ với gia đình và họ hàng - "Thật ngớ
    ngẩn khi ở thế kỷ hai mốt rồi mà người ta vẫn còn giữ cái quan niệm ấu
    trĩ đó. Chỉ có con chó giữ nhà mới có những biểu hiện tình cảm ngớ ngẩn
    như vậy. Mà liệu nó có làm như thế không khi người ta không cho nó ăn".


    Bà Vương rất thương con trai. Sống vất vả từ bé, lại phải gánh trên vai
    cái trọng trách của một người đàn ông trong gia đình sau khi bố mất,
    con trai bà trở thành một đứa lầm lỳ, thậm chí có phần cục súc. Bố nó
    mất khi thằng bé mười lăm tuổi. Điều duy nhất bà còn nhớ được về người
    chồng xấu số là những trận đòn. Một lần, đi làm đồng về, bà kinh hãi
    nhìn thằng con trai mới mười bốn tuổi bị bố treo ngược trên xà nhà.
    Đúng vào cái thời điểm đó, bà chợt nhận ra cái chết đang đến rất gần
    với người đàn ông hung bạo kia, cha của các con bà. Đến tận bây giờ bà
    vẫn không thể xác định được viễn tượng về cái chết của ông thoáng hiện
    lên trong đầu bà khi đó là cái tiên cảm bản năng của người thầy bói hay
    chỉ là một ước vọng trùng hợp. Xác ông được tìm thấy trong cái chòi
    chăn vịt bỏ hoang cùng với chai rượu đang uống dở. Thân thể trần truồng
    của ông tím tái vì lạnh, mặc dù lúc ấy đương là mùa hè. Người ta cho
    rằng ông chết vì cảm lạnh.

    Cô út nhớ đến cái ngày cô dẫn người yêu về ra mắt gia đình; mẹ cô kịch
    liệt phản đối dù anh người yêu chẳng có điểm gì đáng chê trách. Cuối
    cùng, cô lấy một anh thợ may có cửa hàng trên thị xã. Đám cưới diễn ra
    vào một ngày trời mưa rất to, khách đến dự vì thế cũng không đông. Cô
    út cứ khóc mãi không thôi khi nhà trai đến đón dâu. Anh người yêu cũ
    sau đó ba năm mắc bệnh ung thư phổi, chết cô đơn và đau đớn trong một
    căn nhà nhỏ ở Hà Nội. Những lúc buồn bã rỗi rãi không có khách hàng đến
    cắt may, cô thường nghĩ về anh. Khi mang thai đứa con gái thứ hai, cô
    út cứ đinh ninh rằng đứa bé cô đang mang trong bụng chính là con anh.
    Những đêm không ngủ được, nằm bên cạnh chồng, cô cứ nghĩ rằng chính
    mình đã gây ra cái chết của anh và mỗi lúc như thế, cô lại oán trách mẹ
    đã ngăn cản mối tình đầu. Dù có một cuộc sống khá sung túc so với những
    người dân quê bên người chồng hiền lành và nhạt nhẽo, cô không khỏi
    buồn lòng mỗi khi nhớ về người đã khuất. Mỗi lần so sánh chồng mình với
    anh người yêu đã chết, cô đều cảm thấy nhẫn tâm nhưng sự so sánh vô
    tình ấy cứ âm ỉ không dứt như thể một thứ độc dược đang ngấm trong cơ
    thể cô. Có lần thậm chí cô còn độc ác đến mức có ý nghĩ rằng mình sẽ
    rất hạnh phúc nếu người chết là người chồng hiện tại chứ không phải anh
    người yêu cũ.

    Đêm nay, theo như kế hoạch bà Vương sẽ chết vào lúc một giờ sáng. Cô út
    ngồi bên giường mẹ. Giường của bà Vương đặt bên cạnh cửa sổ, từ đó có
    thể nhìn ra phía bờ ao. Trên thành cửa sổ có một cái đồng hồ cũ màu
    xanh dương vốn là quà của ông anh cả mua cho mẹ nhân một chuyến đi Liên
    Xô. Đồng hồ chỉ có kim giờ và kim phút, không có kim giây. Nó có cả
    chức năng báo thức nhưng bà Vương chẳng bao giờ dùng; bà thường thức
    dậy lúc khoảng năm giờ sáng và thông thường chả có việc gì làm nên bà
    cứ đi đi lại lại trong buồng. Cô út thỉnh thoảng lại liếc nhìn đồng hồ
    nhưng về sau cảm thấy có cái gì đó bất nhẫn, cô quyết định sẽ không
    nhìn về phía cửa sổ nữa. Bà Vương vẫn nằm bất động trên giường. Bà
    không nói được nữa nhưng tim vẫn thoi thóp đập giống như tiếng tích tắc
    mơ hồ phát ra từ cái đồng hồ Liên Xô. Cô út cầm tay mẹ, cố nhìn về phía
    cửa chính để không trông thấy cái đồng hồ. Cô biết rằng thời gian đang
    trôi đi và việc chờ đợi làm cô mệt mỏi khủng khiếp, chẳng khác gì cái
    ngày cô chờ đợi người ta đến rước dâu. Cảm thấy bàn tay mẹ từ từ lỏng
    ra khỏi bàn tay mình, theo bản năng cô đưa mắt về phía cửa sổ nhìn đồng
    hồ. Đồng hồ chỉ đúng một giờ. "Vậy là mẹ đã nói đúng"- cô thầm nghĩ.
    Nhớ lời bà dặn cách đây ba tháng, cô không đánh thức ai trong nhà dậy.
    Vuốt mắt cho mẹ xong, cô cứ ngồi yên như thế cho đến khi trời sáng.

    Lễ an táng được tiến hành vào hai giờ chiều ngày hôm sau. Đồ đạc cá
    nhân của bà Vương không có nhiều. Ở dưới đáy cái hòm làm bằng gỗ xoan,
    người ta tìm thấy mấy bộ quần áo còn mới nguyên do các con bà mua cho
    mẹ nhưng bà chẳng bao giờ mặc, cùng một cái túi vải nhỏ trong đó có một
    tờ giấy bạc năm mươi đồng màu xanh được gói kỹ trong giấy báo đã ố
    vàng. Tờ giấy bạc này là tiền mừng tuổi của ông anh cả cho mẹ hồi mới
    đổi tiền. Trông thấy tờ giấy bạc vẫn còn mới tinh không một nếp gấp nay
    đã trở nên vô giá trị, người đàn ông bật khóc nức nở. Cô út muốn nói
    một câu gì đó an ủi ông anh trai nhưng mối ác cảm ngấm ngầm suốt bao
    năm qua khiến cô im lặng. Hai ngày hôm đó, trời nóng khủng khiếp và có
    rất nhiều ruồi. Chúng đậu kín trên những chồng bát đĩa phơi ở góc sân,
    trông xa hệt như những tảng đá màu đen. Lúc hạ huyệt, tiếng khóc ai oán
    nổi lên. Cô út lơ đãng nhìn chiếc quan tài sơn màu đỏ ánh nhũ được luồn
    qua hai sợi dây thừng to tướng từ từ hạ xuống. Giống như mọi người cô
    bốc một nắm đất ném xuống huyệt. Lặng lẽ nhìn về cánh đồng màu xanh
    phía xa chân trời không một gợn mây, cô thấy mình quá đơn độc.

    Buổi chiều tối, sau đám tang, cô vào buồng mẹ thu dọn mấy thứ lặt vặt.
    Cái giường bà Vương nằm giờ chỉ còn trơ lại giát giường đã mọt mấy chỗ.
    Cô út bần thần đứng một lúc lâu trong căn phòng trống trải mà không
    biết phải làm gì. Bất giác cô đưa mắt về phía cửa sổ nơi có chiếc đồng
    hồ Liên Xô màu xanh dương. Đồng hồ vẫn chỉ một giờ. Cô cay đắng thầm
    nghĩ: "Giờ thì thậm chí mình chẳng biết mẹ mất lúc mấy giờ".

    Nagoya, 12/2004

      Hôm nay: Fri Mar 29, 2024 2:07 pm